Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015

Những câu chuyện hay về núi Bài Thơ

Núi Bài Thơ nằm trung tâm thành phố Hạ Long. Từ khu du lịch Bãi Cháy nhìn sang Hòn Gai, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy ngọn cờ tổ quốc khổ lớn quanh năm tung bay trên đỉnh núi. Vào thành phố để leo lên núi Bài Thơ, du khách có thể đi bằng hai đường. Một là lên từ phố Long Tiên, ngõ đi bên cạnh chùa Long Tiên, hai là đi từ phố Hàng Nồi, đi qua con ngõ nhỏ của nhà dân để vào đường lên núi. Nhiều người chọn đi theo hướng thứ hai này. Phương tiện xe máy hoặc ô tô có thể gửi tại chợ Hạ Long hoặc sân Cây Tháp, đối diện gần đường leo lên núi.Để chuẩn bị cho chuyến đi, bạn cần giày tất, áo mũ, nước uống, máy ảnh, điện thoại và hơn hết là lòng ham học hỏi của bạn.Núi Bài Thơ có đỉnh cao nhất hình ngọn mác chĩa lên trời, cốt dương cao 168 m (nguồn của Tổng Cục du lịch thì ghi núi có độ cao là 200m). Phía dưới một chút có nhiều ngọn, nhiều mỏm chông chênh. Đường leo lên núi giờ nhiều người đi nên không còn quá hoang sơ như những năm xưa nua. Các vách đá dựng đứng, những lèn đá tai mèo dọc đường leo lên núi đã góp phần làm cho núi Bài Thơ thêm vẻ huyền bí, thâm trầm. Thi thoảng trên đường leo lên núi, bạn sẽ gặp một vài con dê của người dân nuôi thả kêu hoang dại. 
Anh: Halongwave
Núi Bài Thơ thuở xưa có tên núi Rọi Đèn, tên chữ là Truyền Đăng Sơn. Tương truyền, xưa lính thú gác trên núi, hễ có giặc giã đến thì đốt lửa bằng phân sói, hun khói trên đỉnh núi báo về kinh thành. Thầy giải thích, cách truyền tin khi xưa, khói hun lên được “truyền” vào đỉnh Yên Tử, rồi cứ thế truyền tiếp tin đi. Có lẽ vì thế mà trong bài thơ được khắc trên vách núi bản dịch thơ của Trần Nhuận Minh có nhắc đến chữ “khói lang bay” trong câu “Đế Chủ điệp trùng quân hổ mạnh/Hải Đông đã tắt khói lang bay” (?!). Và cũng từ đó núi này xuất hiện tên núi Truyền Đăng. Giờ thì trên đỉnh núi Bài Thơ đã có trạm thu phát sóng điện đài hiện đại để truyền tin rồi.

Tấm bia đá khắc lịch sử của ngọn núi: “Từ đỉnh núi này, hàng ngàn năm trước đã là vọng gác trọng yếu vùng biên ải Đông Bắc của Tổ quốc. Đêm đêm lính canh đốt đèn bao hiệu, chỉ đường cho thuyền bè cập bến, khi có giặc thì đốt lửa báo tin về kinh đô. Dân gian gọi là núi Dọi Đèn (Truyền Đăng)

Theo sử sách ghi chép, năm 1468, vào dịp mùa xuân, năm Quang Thuận thứ 9, đời vua Lê Thánh Tông, cháu nội của Lê Lợi, đưa quân đi tuần ở vùng biển Đông Bắc, đã cho dừng thuyền ở chân núi Truyền Đăng, phía giáp với Vịnh Hạ Long, để uống rượu ngâm thơ.  Trước cảnh đẹp sơn thủy hữu tình của thiên nhiên, vua Lê Thánh Tông đã cho khắc một bài thơ lên vách đá gồm 56 chữ Hán. Vào năm 1729 chúa An Đô Vương Trịnh Cương, một nhà thơ có tiếng thời Lê - Trịnh, cũng đem quân đi tuần qua đây. Ông cho đóng quân đồn trú dưới chân núi Truyền Đăng. Đọc thấy bài thơ của vua Lê Thánh Tông, chúa Trịnh bèn họa lại bằng một bài thất ngôn bát cú. Đến đầu thế kỷ 20 nhiều tao nhân, mặc khách đi du ngoạn qua vùng Hạ Long, gặp bài thơ này lại cho khắc thêm 7 bài thơ nữa, có bài chữ Hán, có bài chữ Quốc ngữ trên những vách đá lân cận nâng tổng số lên 9 bài thơ còn lưu truyền đến ngày nay. Con đường bao biển được xây dựng cách đây mấy năm, đã “ôm” qua chân núi nên giờ du khách muốn xem bài thơ này của vua Lê Thánh Tông thuận tiện hơn nhiều so với trước.Như vậy, núi Bài Thơ - Hạ Long gắn liền với rất nhiều câu chuyện lịch sử nước nhà, điều đó ngày càng khẳng định giá trị lịch sử, văn hóa của mảnh đất Hạ Long này.

Nguồn: Hữu Bình - vietq.vn
x